Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm 2025
28/11/2025
Chuyên mục: Vietnam Report In trang
Ngày 28/11/2025, Vietnam Report chính thức công bố danh sách thường niên Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm 2025, trong khuôn khổ chương trình Công bố Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500) lần thứ 19.
Việt Nam – điểm đến đầu tư hấp dẫn trong chu kỳ tăng trưởng mới
Giai đoạn 2015-2024, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6,0%, đứng đầu nhóm các nền kinh tế lớn tại châu Á. Bước sang năm 2025, Việt Nam tiếp tục được dự báo tăng trưởng trên 8%, giữ vững vị thế là một trong những nền kinh tế năng động nhất khu vực.

Nguồn: WB, IMF, Vietnam Report và Boston Report Group tổng hợp, phân tích
Dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng cho thấy đà tăng tích cực. Tính trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ và là mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Niềm tin của nhà đầu tư quốc tế tiếp tục củng cố nhờ nền tảng tăng trưởng bền vững, chi phí cạnh tranh và môi trường chính sách ổn định. Song song đó, quá trình sáp nhập tỉnh thành, hình thành các vùng kinh tế quy mô lớn, đẩy mạnh đầu tư công, cải cách thủ tục hành chính, hạ tầng logistics và chuyển đổi số đang tạo thêm dư địa phát triển mới cho các địa phương. Những động lực này mở đường cho việc hình thành các “điểm rơi chiến lược” của doanh nghiệp lớn trên toàn quốc.
Danh sách Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm 2025
Vietnam Report áp dụng hệ phương pháp nghiên cứu độc lập, khách quan, dựa trên ba nhóm tiêu chí chính:
(1) Số lượng doanh nghiệp lớn (VNR500) giai đoạn 2021–2025: Phản ánh sức hút và quy mô hệ sinh thái doanh nghiệp tại địa phương.
(2) Môi trường đầu tư và thu hút FDI năm 2025: Xem xét mức độ hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước, bao gồm hạ tầng, logistics, công nghiệp, thủ tục hành chính.
(3) Đóng góp vào tăng trưởng quốc gia: Dựa trên tốc độ tăng trưởng GRDP, thu ngân sách nhà nước và vai trò trong chuỗi giá trị liên vùng.
Dữ liệu được thu thập từ cơ quan quản lý nhà nước, thống kê kinh tế – xã hội, dữ liệu doanh nghiệp lớn của Vietnam Report, cùng phân tích định lượng và định tính theo chuẩn quốc tế.

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group tổng hợp, tháng 11/2025
Phân tích nổi bật từng địa phương trong Top 10
Phú Thọ

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Phú Thọ đang từng bước khẳng định vị thế như một cực tăng trưởng mới của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ khi tiến trình sắp xếp đơn vị hành chính và liên kết vùng được đẩy mạnh, mở ra cơ hội tái định vị vai trò của địa phương trong cấu trúc phát triển miền Bắc. Khác với hình ảnh một địa phương trung du truyền thống, Phú Thọ ngày nay đang chuyển mình mạnh mẽ để trở thành trung tâm công nghiệp quy mô vừa – logistics – dịch vụ du lịch văn hóa kết nối trực tiếp Hà Nội với Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La và Thanh Hóa. Nhờ vị trí cửa ngõ phía Tây Thủ đô, Phú Thọ giữ vai trò cầu nối quan trọng giữa đồng bằng sông Hồng và vùng Tây Bắc, tạo ra trục lưu chuyển hàng hóa, lao động và dịch vụ mang tính chiến lược.
Sau sáp nhập, không gian phát triển của Phú Thọ được mở rộng đáng kể khi địa phương nằm trong mạng lưới các tuyến đường cao tốc kết nối vùng: Nội Bài – Lào Cai, Việt Trì – Ba Vì, Hòa Bình – Mộc Châu (tương lai), cùng các tuyến quốc lộ hướng tâm về Hà Nội. Điều này cho phép Phú Thọ trở thành điểm trung chuyển logistics quan trọng phục vụ cả thị trường phía Bắc và giao thương quốc tế qua Lào Cai. Với doanh nghiệp, lợi thế “liên thông hai vùng” này giúp địa phương trở thành điểm đặt nhà máy vệ tinh tối ưu.
Cấu trúc kinh tế của Phú Thọ đang chuyển dịch từ nông nghiệp – công nghiệp nhẹ sang công nghiệp chế biến, điện tử phụ trợ, vật liệu mới và logistics. Các khu công nghiệp hiện đại của địa phương được quy hoạch bài bản với quỹ đất sạch rộng lớn, hạ tầng đồng bộ đạt chuẩn quốc tế, qua đó thu hút nhiều tập đoàn lớn như Japfa Comfeed, Piaggio Việt Nam, Việt Đức VG PIPE, AMY GRUPO hay Daesang Việt Nam, khẳng định sức hấp dẫn của Phú Thọ đối với cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Song song với công nghiệp, Phú Thọ sở hữu một lợi thế mà ít địa phương phía Bắc có được: tài nguyên văn hóa – du lịch đặc sắc, tiêu biểu là Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (UNESCO), lễ hội Đền Hùng, tạo nên mũi nhọn phát triển dịch vụ – du lịch lễ hội và du lịch trải nghiệm.
Tuy nhiên, để bứt phá mạnh hơn, Phú Thọ cần cải thiện một số điểm nghẽn: hạ tầng nội tỉnh chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực kỹ thuật còn hạn chế; dịch vụ hỗ trợ công nghiệp và logistics chưa phát triển tương xứng; và sự kết nối giữa công nghiệp – du lịch – dịch vụ chưa đủ chặt để tạo giá trị cộng hưởng. Đồng thời, cơ chế điều phối vùng giữa Phú Thọ – Hà Nội cần được nâng cấp để tránh “đứt gãy” chính sách trong thu hút đầu tư.
Tổng thể, Phú Thọ đang ở thời điểm thuận lợi để vươn lên thành cực tăng trưởng cân bằng của miền Bắc, hội tụ cả công nghiệp sạch, logistics, dịch vụ và du lịch văn hóa. Với vai trò cầu nối giữa đồng bằng và trung du, cùng sự chuyển dịch mạnh sang công nghiệp phụ trợ, Phú Thọ sẽ đóng góp quan trọng vào cấu trúc tăng trưởng mới của khu vực.
Bắc Ninh

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Năm 2025, lần đầu tiên địa phương có tên trong danh sách Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn, Bắc Ninh đang giữ vị thế then chốt trong cấu trúc tăng trưởng miền Bắc khi quá trình sắp xếp đơn vị hành chính và tăng cường liên kết vùng đang giúp địa phương củng cố vững chắc vị thế “thủ phủ điện tử” và trung tâm công nghiệp công nghệ cao của Việt Nam. Nằm trong “vành đai sản xuất – công nghệ” bao quanh Thủ đô, Bắc Ninh không chỉ là điểm đến ưu tiên của các tập đoàn toàn cầu trong lĩnh vực điện tử – bán dẫn, mà còn là mắt xích quan trọng kết nối giữa Hà Nội – trung tâm điều hành và tri thức, Hải Phòng – cửa ngõ xuất nhập khẩu, và cực sản xuất lân cận như Hưng Yên. Nhờ vị trí địa lí kinh tế đặc biệt cộng hưởng với hạ tầng giao thông liên vùng, Bắc Ninh đang trở thành một trong những địa phương có mức độ hội nhập sâu nhất vào chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu tại ASEAN.
Nền tảng sức mạnh của Bắc Ninh nằm ở cấu trúc công nghiệp điện tử quy mô lớn đã phát triển hơn hai thập kỷ hình thành hệ sinh thái công nghiệp điện tử – linh kiện – công nghệ hỗ trợ phong phú nhất cả nước. Mô hình này giúp Bắc Ninh duy trì năng suất cao, kim ngạch xuất khẩu lớn và sức bật kinh tế ổn định, ngay cả trong bối cảnh biến động toàn cầu. Sau sáp nhập, không gian phát triển công nghiệp của địa phương được mở rộng theo hướng kết nối trực tiếp với các dự án hạ tầng trọng điểm như Vành đai 4 Hà Nội, cao tốc đi Hải Phòng, Quảng Ninh giúp tăng tốc độ lưu thông hàng hóa và thu hút dòng vốn FDI mới trong lĩnh vực bán dẫn, thiết bị thông minh, pin và công nghệ xanh. Theo thông tin từ Cục Thống kê (Bộ Tài chính) tính đến tháng 10 năm 2025, Bắc Ninh là địa phương dẫn đầu vốn đầu tư FDI đăng ký mới và điều chỉnh, với tổng vốn đăng ký cấp mới và điều chỉnh đạt 4,94 tỷ USD, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với công nghiệp, Bắc Ninh đang phát triển mạnh mô hình đô thị – dịch vụ công nghệ để phù hợp với lực lượng lao động chất lượng cao và nhu cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Các đô thị vệ tinh, khu công nghệ cao, trung tâm thương mại – giáo dục – y tế đang được đầu tư đồng bộ, từng bước đưa Bắc Ninh chuyển từ trung tâm gia công sản xuất sang “đô thị công nghiệp hiện đại”. Tuy nhiên, đà phát triển nhanh này cũng đặt ra nhiều thách thức: áp lực môi trường từ công nghiệp điện tử, nhu cầu nhà ở và hạ tầng đô thị tăng nhanh, cạnh tranh thu hút nhân lực kỹ thuật cao với Hà Nội và các địa phương lân cận, cùng bài toán phải nâng cấp hệ thống dịch vụ công để theo kịp tốc độ công nghiệp hóa.
Dù đối mặt với nhiều thách thức, Bắc Ninh đang sở hữu lợi thế mà không địa phương nào có: độ tập trung cao của chuỗi cung ứng điện tử – công nghệ, vị trí chiến lược trong vùng Thủ đô, khả năng kết nối cảng biển – sân bay thuận lợi và nền tảng công nghiệp phụ trợ sâu. Trong bối cảnh Việt Nam hướng đến nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển công nghệ cao và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, Bắc Ninh không chỉ giữ vai trò “công xưởng điện tử” của Việt Nam, mà đang trở thành một cực tăng trưởng chiến lược, có năng lực cạnh tranh mạnh mẽ và khả năng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị cao của khu vực.
Quảng Ninh

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Quảng Ninh với vai trò hạt nhân của kinh tế biển, du lịch chất lượng cao và mô hình quản trị hiện đại, đang khẳng định vị thế là một trong những cực phát triển năng động và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất, tạo ra nền tảng vững chắc cho toàn bộ vùng Đông Bắc và vành đai công nghiệp Bắc Bộ.
Sự chuyển mình của Quảng Ninh trong thập kỷ qua là minh chứng rõ ràng cho tư duy “phát triển dựa trên cải cách thể chế” khi là địa phương nhiều năm dẫn đầu PCI, đẩy mạnh số hóa thủ tục và cải cách môi trường đầu tư, tạo niềm tin lớn cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Những tập đoàn lớn đã chọn Quảng Ninh làm điểm đến chiến lược có thể kể đến Tổng công ty Đông Bắc với các dự án năng lượng và vật liệu xây dựng, Calofic (liên doanh Wilmar – Singapore) mở rộng tổ hợp nhà máy dầu ăn hiện đại tại KCN Cái Lân, cùng BIM Group phát triển hàng loạt khu nghỉ dưỡng, khách sạn cao cấp cùng dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn. Quảng Ninh có lợi thế lớn để mở rộng các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp sạch và mô hình đô thị – du lịch – cảng biển tích hợp. Điều này giúp địa phương không chỉ duy trì tốc độ tăng trưởng cao, mà còn định hình lại cấu trúc kinh tế theo hướng giảm khai thác tài nguyên, tăng sản xuất sạch, dịch vụ và du lịch giá trị cao.
Điểm nổi bật nhất của Quảng Ninh là năng lực kết nối và vị trí chiến lược. Địa phương cùng với Hải Phòng tạo thành “cặp song trụ” của hành lang kinh tế ven biển Bắc Bộ. Hệ thống cao tốc đồng bộ kéo dài từ Hà Nội – Hải Phòng – Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái đã biến Quảng Ninh thành cửa ngõ kết nối Việt Nam với Trung Quốc và Đông Bắc Á, đồng thời mở ra hành lang thương mại biển – đất liền hiếm có. Sân bay Vân Đồn, cảng Cái Lân, cảng biển nước sâu và các trung tâm logistics ven biển giúp địa phương trở thành điểm trung chuyển hàng hóa và dịch vụ du lịch quốc tế. Với doanh nghiệp, đây là lợi thế lớn để phát triển logistics, thương mại, du lịch, dịch vụ cảng biển và các ngành công nghiệp sạch quy mô lớn.
Bên cạnh lợi thế biển, Quảng Ninh sở hữu hệ sinh thái du lịch hiếm có với Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, bán đảo Cát Bà liền kề, hệ thống rừng – biển đặc hữu và các đô thị du lịch hiện đại như Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn. Quảng Ninh đã chuyển dịch mạnh từ du lịch đại chúng sang du lịch chất lượng cao, chú trọng hạ tầng giải trí – nghỉ dưỡng – trải nghiệm, biến Quảng Ninh thành điểm đến hàng đầu tại châu Á. Việc phát triển hạ tầng và không gian du lịch theo hướng “đẳng cấp – xanh – bền vững” cũng giúp địa phương thu hút nhóm khách quốc tế có chi tiêu cao.
Tuy nhiên, Quảng Ninh vẫn phải đối diện ba thách thức lớn: áp lực môi trường từ công nghiệp nặng và đô thị hóa ven biển; yêu cầu duy trì tốc độ cải cách hành chính trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư ngày càng gay gắt; và thách thức cân bằng giữa du lịch – công nghiệp – khai thác hợp lý tài nguyên. Nếu giải quyết tốt các bài toán này, Quảng Ninh có đủ điều kiện để trở thành một trong những địa phương có mô hình phát triển toàn diện nhất Việt Nam, kết hợp kinh tế biển, dịch vụ, công nghiệp sạch và quản trị hiện đại.
Tổng thể, Quảng Ninh không chỉ là điểm sáng của vùng Đông Bắc mà đang đóng vai trò cực tăng trưởng toàn diện của cả nước, góp phần định hình mô hình phát triển bền vững cho Việt Nam.
Hà Nội

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Hà Nội đang đứng trước thời cơ phát triển mang tính bước ngoặt khi quá trình sắp xếp đơn vị hành chính và mở rộng liên kết vùng đặt Thủ đô vào vị trí “bộ não” của toàn bộ cấu trúc tăng trưởng quốc gia. Từ vai trò trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa, thì sau sáp nhập, Hà Nội trở thành hạt nhân điều phối của một “vùng siêu đô thị – siêu công nghiệp” trải dài sang Bắc Ninh, Hưng Yên và Phú Thọ - nơi tập trung các doanh nghiệp FDI công nghệ cao, cùng hệ thống các nhà máy điện tử, cơ khí, ô tô lớn nhất cả nước. Theo số liệu từ Cục Thống Kê (Bộ Tài chính) tính đến tháng 10 năm 2025, Hà Nội đã thu hút vốn FDI đăng ký mới và điều chỉnh đạt 3,63 tỷ USD, gấp 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2024. Ở góc nhìn chiến lược, Hà Nội đang dịch chuyển từ vị thế một đô thị trung tâm sang vai trò trục ra quyết định cho toàn vùng Bắc Bộ, tương tự mô hình Seoul – Gyeonggi hay Tokyo – Kanagawa tại châu Á.
Điểm nổi bật trong cấu trúc mới là khả năng dẫn dắt chuỗi cung ứng công nghệ cao. Hà Nội sở hữu hệ sinh thái trí tuệ lớn nhất cả nước – từ nguồn nhân lực cấp cao, trường đại học, viện nghiên cứu đến trung tâm R&D và doanh nghiệp công nghệ. Trong khi đó, các tỉnh vệ tinh như Bắc Ninh (điện tử), Phú Thọ (ô tô – cơ khí), Hưng Yên (phụ trợ) lại đảm nhiệm vai trò sản xuất. Khi liên kết vùng được củng cố, Hà Nội trở thành điểm điểm tập trung các quyết định công nghệ – đầu tư, còn vành đai phụ cận là nơi thực thi. Liên kết này giúp rút ngắn đáng kể thời gian phát triển sản phẩm, tối ưu chi phí logistics và tăng mức độ gắn kết của doanh nghiệp với toàn vùng sản xuất.
Song hành với vai trò công nghệ, Hà Nội tiếp tục là trung tâm dịch vụ có giá trị gia tăng cao: tài chính – ngân hàng, thương mại, giáo dục chất lượng cao, y tế chuyên sâu và khối dịch vụ tiêu dùng cao cấp. Đây là nền tảng để doanh nghiệp lớn mở rộng thị phần, xây dựng thương hiệu và phát triển các mô hình kinh doanh mới dựa trên dữ liệu và tiêu dùng số. Thị trường tiêu dùng của Hà Nội, với mức độ ổn định cao và sức mua lớn, đóng vai trò như “mỏ neo” cho các tập đoàn dịch vụ, bán lẻ, fintech và giáo dục.
Tuy nhiên, đi cùng vai trò ngày càng lớn, Hà Nội cũng phải đối diện với những thách thức tương xứng của một trung tâm chiến lược của cả nước. Áp lực lên hạ tầng đô thị lõi ngày càng gia tăng, trong khi yêu cầu mở rộng và hiện đại hóa hệ thống giao thông công cộng trở nên cấp thiết. Chênh lệch về chất lượng dịch vụ giữa các khu vực vẫn hiện hữu, đòi hỏi cơ chế điều phối vùng hiệu quả hơn để tránh xung đột phát triển. Bài toán nhân lực chất lượng cao cũng sẽ ngày càng gay gắt hơn khi Hà Nội phải cạnh tranh không chỉ trong nước mà cả với các đô thị khu vực như Bangkok hay Kuala Lumpur.
Dẫu vậy, với lợi thế về chính sách, công nghệ, tri thức và vị trí điều phối vùng, Hà Nội đang hội tụ đầy đủ điều kiện để trở thành cực tăng trưởng chiến lược của cả nước, có sức lan tỏa mạnh trong khu vực ASEAN. Thủ đô không chỉ là trung tâm hành chính – chính trị, mà là nền tảng trí tuệ và điều hành cho toàn bộ “vành đai công nghiệp – công nghệ cao” miền Bắc. Trong bối cảnh Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng chất lượng cao và tăng cường hội nhập sâu vào chuỗi giá trị quốc tế, Hà Nội sẽ tiếp tục giữ vai trò “điểm tựa chiến lược”, quyết định tốc độ và chất lượng phát triển của toàn vùng, đồng thời củng cố vị thế quốc gia trên bản đồ kinh tế thế giới.
Hải Phòng

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Nếu Hà Nội là bộ não hoạch định chính sách và công nghệ, Bắc Ninh là trung tâm điện tử, Quảng Ninh là hình mẫu quản trị – du lịch, thì Hải Phòng đảm nhận chức năng đầu mối sản xuất – logistics – xuất khẩu của toàn vùng, tạo trục kết nối quan trọng cho dòng chảy thương mại quốc tế. Thành phố chuyển mình từ một đô thị cảng truyền thống thành một trung tâm công nghiệp – cảng biển tầm khu vực, gợi nhớ đến những điểm tựa tăng trưởng như Busan (Hàn Quốc) hay Kaohsiung (Đài Loan) trong thời kỳ công nghiệp hóa Đông Á.
Vị thế cửa ngõ kinh tế biển của Hải Phòng được củng cố mạnh mẽ khi cụm cảng biển nước sâu Lạch Huyện đi vào vận hành và không ngừng được nâng cấp. Đây là một trong số ít cảng tại ASEAN có thể tiếp nhận tàu trọng tải lớn, giúp giảm đáng kể chi phí vận tải và tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Sau sáp nhập và liên kết vùng được đẩy mạnh, tầm ảnh hưởng của Hải Phòng mở rộng ra toàn bộ miền Bắc: từ Bắc Ninh – trung tâm sản xuất điện tử hàng đầu ASEAN, đến Hưng Yên, Quảng Ninh – nơi tập trung các ngành công nghiệp phụ trợ và chuỗi logistics ven biển. Hải Phòng trở thành “điểm đầu – điểm cuối” của chuỗi giá trị: tiếp nhận FDI và thiết bị công nghệ từ bên ngoài, đồng thời là cửa xuất khẩu chính của sản phẩm điện tử, cơ khí, máy móc và hàng công nghiệp chế biến.
Cùng với hạ tầng cảng biển, Hải Phòng sở hữu hệ thống khu công nghiệp – khu kinh tế hiện đại như Đình Vũ – Cát Hải, Tràng Duệ, VSIP, thu hút các tập đoàn công nghệ toàn cầu như LG Electronics (Hàn Quốc), Ford Việt Nam (Hoa Kỳ), LS-VINA (Hàn Quốc), Nhựa Phú Lâm (Đài Loan) . Lũy kế 10 tháng đầu năm 2025, vốn FDI đăng ký cấp mới và điều chỉnh vào Hải Phòng đạt gần 2,08 tỷ USD, tăng 45,9% so với cùng kỳ. Cấu trúc công nghiệp của thành phố đã dịch chuyển rõ rệt từ công nghiệp nặng truyền thống sang công nghệ cao, logistics, công nghiệp chế biến và dịch vụ cảng thế hệ mới. Đây là nền tảng để Hải Phòng trở thành trung tâm sản xuất – logistics tích hợp, nơi liên kết trực tiếp với các tuyến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh – Lạng Sơn, tạo nên mạng lưới liên thông xuyên vùng.
Tuy vậy, sự phát triển mạnh mẽ của Hải Phòng cũng đặt ra nhiều thách thức lớn: áp lực môi trường ven biển, nhu cầu nâng cấp logistics nội đô, thiếu hụt lao động kỹ thuật cao và yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều phối vùng để đảm bảo phát triển hài hòa với các địa phương lân cận. Đây là những bài toán mà bất kỳ đô thị cảng biển công nghiệp nào trên thế giới cũng phải đối mặt khi bước vào giai đoạn tăng tốc.
Dẫu vậy, xét về tổng thể, Hải Phòng đang ở vị thế mà ít địa phương có được: năng lực sản xuất mạnh, cảng biển tầm quốc tế, kết nối xuyên vùng hoàn chỉnh và sức bật từ quá trình tái cấu trúc hành chính. Thành phố không chỉ là điểm trung chuyển hàng hóa của miền Bắc, mà đang trở thành một cực tăng trưởng chiến lược, giữ vai trò then chốt trong hành trình nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc gia. Hải Phòng chính là “động cơ phía Đông” của Việt Nam – nơi quyết định tốc độ, độ sâu và sức bền của tăng trưởng trong thập kỷ tới.
Hưng Yên

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Hưng Yên đang nổi lên như một cực công nghiệp mới của miền Bắc khi tiến trình sắp xếp đơn vị hành chính và mở rộng liên kết vùng đặt địa phương vào vị trí chiến lược trên trục phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Bắc Ninh. Nếu trước đây Hưng Yên được xem như địa phương vệ tinh của Thủ đô, thì nay địa phương đang tái định vị mình thành một trung tâm công nghiệp – công nghệ cao có vai trò bổ trợ trọng yếu cho chuỗi cung ứng điện tử và cơ khí của vùng Bắc Bộ. Sức bật của Hưng Yên đến từ hai yếu tố: vị trí địa lí kinh tế nằm gần các cực sản xuất lớn (Bắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình) và hiệu ứng lan tỏa mạnh từ vành đai kết nối Hà Nội sau sáp nhập, giúp Hưng Yên trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn nhất với doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ.
Cơ chế liên kết vùng mới tạo cho Hưng Yên một “không gian chức năng” rộng lớn hơn, nơi địa phương có thể tận dụng trực tiếp sức mạnh của Hà Nội trong hoạch định chính sách, nguồn nhân lực, R&D và công nghệ, đồng thời kết nối liền mạch với cảng biển – trung tâm logistics tại Hải Phòng và các cụm sản xuất lớn của Bắc Ninh – Hải Dương. Việc mở rộng hệ thống cao tốc, đường vành đai và các tuyến xuyên tỉnh mang tính liên thông tạo nên lợi thế vượt trội về logistics: hàng hóa có thể di chuyển từ khu công nghiệp của Hưng Yên tới cảng biển hoặc sân bay trong thời gian ngắn, giúp doanh nghiệp giảm chi phí vận hành và nâng cao khả năng cạnh tranh. Đây là điều kiện tiên quyết thu hút dòng FDI công nghệ cao vốn rất nhạy cảm với hạ tầng.
Trong 10 năm qua, Hưng Yên chuyển dịch mạnh sang công nghiệp sạch, công nghệ cao và phụ trợ, với sự xuất hiện của nhiều dự án điện tử – cơ khí, thiết bị thông minh, linh kiện và sản phẩm công nghệ có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Những cái tên tiêu biểu góp phần định hình diện mạo công nghiệp Hưng Yên phải kể đến Tập đoàn Hòa Phát, Stavian Hóa chất, Mavin Austfeed. Hiện Hưng Yên có 1 Khu kinh tế và 23 khu công nghiệp đưc thành lập, với tổng diện tích trên 5.890 ha và đạt tỷ lệ lấp đầy 64,9%, tiêu biểu như Thăng Long II, Yên Mỹ, Phố Nối A – B, Nguyễn Đức Cảnh, Phúc Khánh, Liên Hà Thái… đang giữ vai trò “vệ tinh sản xuất” quan trọng cho Bắc Ninh và Hà Nội, đồng thời từng bước khẳng định tính độc lập thông qua mô hình tự tạo chuỗi giá trị riêng. Đây là nền tảng giúp Hưng Yên gia nhập nhóm địa phương có khả năng duy trì tăng trưởng bền vững trong bối cảnh Việt Nam chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất và công nghệ.
Tuy nhiên, Hưng Yên cũng đang đối diện thách thức đáng kể: cạnh tranh thu hút đầu tư với các địa phương láng giềng ngày càng gay gắt; áp lực về môi trường và chất lượng hạ tầng cần được giải quyết theo tiêu chuẩn cao hơn; các khu đô thị – dịch vụ phải theo kịp tốc độ công nghiệp hóa; và nguồn nhân lực kỹ thuật cao phải được đào tạo bài bản để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp công nghệ. Việc điều phối phát triển với Hà Nội và các địa phương trong vùng cũng cần cơ chế rõ ràng hơn để tránh xung đột về quy hoạch hoặc cạnh tranh nội vùng.
Dù vậy, Hưng Yên đang hội tụ những điều kiện hiếm có để bước vào giai đoạn phát triển bứt phá: vị trí lõi trong tam giác công nghiệp Bắc Bộ, hạ tầng kết nối tối ưu, dòng vốn công nghệ cao liên tục đổ về và khả năng tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng điện tử – cơ khí toàn cầu. Địa phương không còn là “vùng đệm” của Hà Nội, mà đang trở thành một cực công nghiệp chiến lược trong bản đồ tăng trưởng mới của miền Bắc.
Ninh Bình

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Lần đầu tiên góp mặt trong Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn, Ninh Bình đang từng bước tái định vị như một cực phát triển cân bằng của khu vực, khi tiến trình sắp xếp đơn vị hành chính và củng cố liên kết vùng mở ra không gian kinh tế mới, nơi công nghiệp chế tạo, du lịch sinh thái và nông nghiệp đặc thù cùng tồn tại trong một cấu trúc hài hòa hiếm thấy. Trong khi nhiều địa phương phụ thuộc vào một ngành mũi nhọn, Ninh Bình phát triển theo mô hình “ba trụ cột”, tạo ra sự ổn định và sức chống chịu cao trước biến động kinh tế. Sau sáp nhập, vị trí chiến lược của địa phương được củng cố nhờ khả năng kết nối liền mạch Hà Nội và Thanh Hóa, giúp Ninh Bình trở thành điểm cân bằng giữa tam giác sản xuất – dịch vụ – du lịch của khu vực.
Trụ cột quan trọng nhất trong nền kinh tế Ninh Bình hiện nay là công nghiệp chế tạo, đặc biệt là cơ khí, ô tô và điện tử phụ trợ, trong đó tiêu biểu là nhà máy Hyundai Thành Công. Sự phát triển của tổ hợp sản xuất quy mô lớn đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, kéo theo nhiều doanh nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực cơ khí chính xác, khuôn mẫu, vật liệu và linh kiện. Nhờ vị trí nằm trên trục giao thông huyết mạch nối Thủ đô với Bắc Trung Bộ, hàng hóa từ Ninh Bình dễ dàng kết nối với cảng biển Hải Phòng – Quảng Ninh, mở ra lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn. Sau sáp nhập, địa phương có cơ hội thu hút các dự án công nghiệp xanh và công nghệ cao, nhất là khi doanh nghiệp toàn cầu đang chuyển dịch khỏi các trung tâm công nghiệp chi phí cao và tìm kiếm những địa phương có nền tảng hạ tầng – lao động – chính sách ổn định như Ninh Bình.
Song song với công nghiệp, du lịch sinh thái – văn hóa là trụ cột tạo bản sắc của địa phương. Ninh Bình hiện sở hữu quần thể danh thắng Tràng An (UNESCO), Tam Cốc – Bích Động, khu sinh thái Vân Long, chùa Bái Đính và nhiều tuyến du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng độc đáo dựa trên núi đá vôi và hệ thống hang động. Đây là nền tảng để địa phương phát triển mô hình du lịch chất lượng cao, hướng tới thị trường quốc tế có khả năng chi tiêu lớn. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của Ninh Bình là duy trì sự cân bằng giữa phát triển du lịch và bảo tồn cảnh quan tự nhiên – một bài toán chiến lược mà địa phương phải giải quyết nếu muốn xây dựng hình ảnh điểm đến cao cấp bền vững.
Trụ cột thứ ba – nông nghiệp đặc thù – bổ sung yếu tố ổn định cho nền kinh tế. Các sản phẩm như dê núi, gạo nếp, rau màu và đặc biệt là các mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch tạo ra giá trị kép: tăng thu nhập cho người dân và làm phong phú trải nghiệm cho du khách. Đây là hướng đi phù hợp với xu hướng “nông nghiệp trải nghiệm” đang phổ biến tại các thị trường phát triển.
Dù sở hữu nhiều lợi thế, Ninh Bình vẫn đối mặt những thách thức đáng kể: quỹ đất công nghiệp hạn chế, thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật – công nghệ cao, áp lực bảo tồn di sản, nhu cầu nâng cấp hạ tầng và dịch vụ đô thị để theo kịp tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, với cấu trúc kinh tế đa trụ cột, vị trí kết nối thuận lợi và lợi thế về cảnh quan – văn hóa, Ninh Bình đang sở hữu nền tảng vững chắc để trở thành cực tăng trưởng bền vững của khu vực Bắc Bộ trong thời kỳ tái cấu trúc kinh tế mới.
Đồng Nai

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Đồng Nai đang bước vào giai đoạn tăng tốc mới khi quá trình sắp xếp đơn vị hành chính và mở rộng lưới liên kết vùng đã đưa địa phương trở thành một trong những “chân kiềng” quan trọng nhất của cấu trúc kinh tế phía Nam. Từ vị thế trung tâm công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao trọng điểm của Việt Nam, Đồng Nai đã hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp đa dạng với nhiều tên tuổi lớn: các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò phát triển hạ tầng kinh tế – công nghiệp như Sonadezi, Dofico; tập đoàn lớn vươn tầm quốc gia Tín Nghĩa, Trường Hải; cùng các nhà đầu tư FDI tiêu biểu như Cargill, Nestlé, Sunjin Vina. Sau sáp nhập, Đồng Nai được hưởng lợi mạnh mẽ từ vị trí chiến lược nằm sát “siêu đô thị kinh tế” TP.HCM, qua đó hình thành trục sản xuất – logistics – cảng biển có quy mô lớn nhất cả nước. Việc hình thành “siêu vùng kinh tế phía Nam” càng giúp Đồng Nai mở rộng không gian phát triển công nghiệp và nông nghiệp, nâng cao vai trò từ một điểm đến FDI truyền thống thành hạt nhân sản xuất – hậu cần hàng không – công nghiệp hỗ trợ của vùng.
Động lực lớn nhất của Đồng Nai trong giai đoạn tới chính là “siêu dự án” quốc gia Cảng hàng không quốc tế Long Thành, một trong những công trình hạ tầng quan trọng bậc nhất Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua. Long Thành không chỉ giải quyết bài toán quá tải của Tân Sơn Nhất mà còn định hình lại toàn bộ bản đồ logistics và đầu tư của khu vực. Với sân bay quốc tế mới, Đồng Nai trở thành “cửa ngõ hàng không của miền Nam”, mở ra cơ hội hình thành các trung tâm logistics hàng không, khu công nghiệp phụ trợ, trung tâm phân phối và dịch vụ thương mại toàn cầu. Các tập đoàn logistics, thương mại điện tử, công nghiệp hỗ trợ sẽ ưu tiên Đồng Nai như một điểm trung chuyển chiến lược, tương tự mô hình phát triển quanh sân bay Suvarnabhumi (Bangkok) hay Changi (Singapore).
Tuy nhiên, Đồng Nai cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trọng yếu: nhu cầu cải thiện hạ tầng kết nối nội tỉnh để giảm tải cho Quốc lộ 51 và cao tốc Long Thành – Dầu Giây; các vấn đề về quy hoạch đô thị, môi trường và nhà ở công nhân trong bối cảnh công nghiệp hóa nhanh; cùng với yêu cầu nâng cấp nguồn nhân lực chất lượng cao để bắt kịp nhu cầu của ngành công nghệ – logistics – hàng không.
Dù vậy, xét trên tiềm năng và lợi thế chiến lược, Đồng Nai đang đứng trước cơ hội bước vào “chu kỳ vàng” của tăng trưởng. Với sân bay Long Thành, hệ thống khu công nghiệp quy mô lớn, vị trí trung tâm của siêu vùng kinh tế và khả năng kết nối đa phương thức (đường bộ – hàng không – đường biển), Đồng Nai không chỉ là địa phương công nghiệp mạnh mà đang trở thành điểm tựa chiến lược, giữ vai trò quan trọng trong việc định hình năng lực cạnh tranh của toàn vùng kinh tế phía Nam.
Tây Ninh

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
Tây Ninh đang nổi lên như một cực tăng trưởng đặc thù của phía Nam khi tiến trình sắp xếp đơn vị hành chính và mở rộng liên kết vùng giúp tỉnh chuyển mình từ một địa phương biên giới truyền thống thành trung tâm logistics – thương mại – năng lượng tái tạo có tầm ảnh hưởng chiến lược. Với vị trí nằm giữa TP.HCM và Phnom Penh, Tây Ninh là cửa ngõ giao thương của Việt Nam với Campuchia và tiểu vùng Mekong mở rộng, nơi hội tụ các luồng hàng nông sản, công nghiệp nhẹ, vật liệu và thương mại biên giới. Sau sáp nhập, lợi thế này được gia tăng khi địa phương trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng xuyên biên giới, đồng thời là “hậu cứ” mà TP.HCM – Đồng Nai đang tìm kiếm để giảm tải áp lực hạ tầng nội đô và mở rộng không gian phát triển.
Điểm nhấn tạo nên lợi thế cạnh tranh giúp Tây Ninh được đánh giá cao trong giai đoạn mới nằm ở năng lượng tái tạo. Địa phương sở hữu một trong những cụm nhà máy năng lượng mặt trời lớn nhất cả nước – Nhà máy điện mặt trời Dầu Tiếng, với tổng mức đầu tư lên đến 12.600 tỷ đồng và diện tích hơn 7,2 km² cùng tiềm năng phát triển điện gió, tạo nền tảng ổn định về năng lượng sạch cho các doanh nghiệp cần đáp ứng tiêu chuẩn ESG toàn cầu. Trong bối cảnh xuất khẩu Việt Nam ngày càng chịu yêu cầu khắt khe từ cơ chế CBAM của EU và quy định carbon của các thị trường phát triển, Tây Ninh – với ưu thế năng lượng tái tạo – trở thành địa bàn tiềm năng để hình thành các khu công nghiệp “xanh”, thu hút các ngành như dệt may, da giày, nông sản chế biến, logistics lạnh và công nghiệp phụ trợ.
Ngoài năng lượng, kinh tế cửa khẩu là động lực tăng trưởng mạnh của Tây Ninh. Các cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát đang được quy hoạch thành trung tâm logistics biên giới hiện đại, nơi hàng hóa từ TP.HCM và toàn vùng Đông Nam Bộ có thể kết nối trực tiếp với Campuchia, Thái Lan và xa hơn là thị trường ASEAN. Đồng thời, dự án cao tốc TP.HCM – Mộc Bài sẽ tái định hình dòng chảy thương mại khi thời gian di chuyển giữa TP.HCM và biên giới được rút ngắn đáng kể, tạo lợi thế lớn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, logistics và thương mại điện tử. Với doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ, Tây Ninh không chỉ là vùng đệm giữa TP.HCM và biên giới, mà trở thành điểm đặt kho, trung tâm phân phối và nhà máy phụ trợ tối ưu nhờ chi phí đất đai thấp, mặt bằng rộng, và khả năng kết nối xuyên biên giới.
Tuy nhiên, Tây Ninh vẫn đối diện nhiều thách thức căn bản: sự thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao; hạ tầng kết nối nội tỉnh chưa đồng bộ; chất lượng dịch vụ logistics còn hạn chế; và nhu cầu cải thiện môi trường đầu tư, quy hoạch đô thị – công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế. Để trở thành cực tăng trưởng bền vững, địa phương cần tăng tốc hoàn thiện các dự án giao thông chiến lược, phát triển các khu công nghiệp xanh tích hợp năng lượng tái tạo, đồng thời nâng cấp năng lực điều phối biên mậu và logistics.
Tây Ninh hiện đang ở thời điểm chuyển mình mạnh mẽ nhờ hội tụ ba yếu tố: vị trí biên giới chiến lược, năng lượng tái tạo quy mô lớn, và vai trò logistics phía Tây của TP.HCM. Địa phương không chỉ là cửa khẩu, mà đang trở thành một cực phát triển mới của vùng Đông Nam Bộ – nơi kết nối thương mại ASEAN, năng lượng sạch và chuỗi cung ứng công nghiệp hội tụ, hứa hẹn đóng góp quan trọng vào năng lực cạnh tranh khu vực của Việt Nam trong giai đoạn tới.
TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Vietnam Report và Boston Report Group
TP. Hồ Chí Minh (TP.HCM) đang bước vào giai đoạn tái định vị quan trọng, khi tiến trình sắp xếp đơn vị hành chính và cấu trúc lại không gian phát triển đang mở ra một “siêu vùng kinh tế” có quy mô và tầm ảnh hưởng vượt xa chức năng của một đô thị trung tâm truyền thống. Nếu trước đây TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu vận hành như ba cực tăng trưởng độc lập – dịch vụ, công nghiệp và cảng biển – thì sau sáp nhập, ba cấu phần này kết nối thành một hệ sinh thái thống nhất, trong đó TP.HCM giữ vai trò hạt nhân điều phối. Tại đây, các quyết định về vốn, sản phẩm, mở rộng đầu tư và đổi mới sáng tạo được khởi phát, còn hai cực công nghiệp – cảng biển đóng vai trò hỗ trợ, tạo thành vòng cung hoàn chỉnh cho sản xuất và xuất khẩu.
Trong cấu trúc hậu sáp nhập, vị thế của TP.HCM không chỉ mở rộng theo nghĩa địa lý mà nâng tầm về năng lực kinh tế. Thành phố trở thành trung tâm tài chính – dịch vụ lớn nhất cả nước, là điểm đến quan trọng trong thu hút vốn FDI, đồng thời dẫn dắt xu hướng đổi mới mô hình kinh doanh và cung ứng nguồn nhân lực chiến lược. Tính trong 10 tháng đầu năm 2025, TP.HCM thu hút vốn đầu tư FDI đăn ký mới và điều chỉnh đạt 2,63 tỷ USD, tăng gấp 2,1 lần so với cùng kỳ năm 2024. Thông qua tuyến đường sắt Bàu Bàng – Cái Mép đang được đề xuất đầu tư, TP.HCM sẽ giữ vai trò đầu mối liên kết các hệ thống sản xuất quy mô lớn ở Bình Dương – Đồng Nai với cụm cảng biển nước sâu Cái Mép – Thị Vải của Bà Rịa – Vũng Tàu, tạo thành luồng vận chuyển – sản xuất – xuất khẩu liền mạch mà doanh nghiệp lớn có thể tận dụng để tối ưu chi phí và rút ngắn thời gian lưu chuyển hàng hóa. Trên nền tảng đó, một “tam giác kinh tế” đặc biệt được hình thành: TP.HCM đóng vai trò trung tâm dịch vụ – tài chính; Bình Dương giữ vai trò sản xuất và công nghiệp hỗ trợ; Bà Rịa – Vũng Tàu là cửa ngõ thương mại quốc tế. Đây là mô hình đặc trưng của các siêu vùng kinh tế châu Á như Greater Tokyo hay Bangkok Metropolitan Region.
Bên cạnh những lợi thế này, TP.HCM cũng đối diện với các thách thức mang tính hệ thống: hạ tầng giao thông chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa; áp lực dân số và nhu cầu về nhà ở, y tế, giáo dục tăng nhanh; cải cách hành chính cần bước tiến mạnh hơn để phù hợp với vai trò trung tâm tài chính – công nghệ; và mô hình điều phối vùng cần được chuẩn hóa để giảm xung đột chính sách giữa các địa phương lân cận. Tuy nhiên, những thách thức này cũng chính là động lực để TP.HCM nâng cấp vị thế thành một trung tâm khu vực thực sự, nơi tích hợp khoa học công nghệ, tài chính quốc tế, logistics và dịch vụ chất lượng cao.
Trong bức tranh kinh tế mới của Việt Nam, TP.HCM không chỉ là đầu tàu truyền thống mà đang trở thành trục xoay chiến lược của toàn vùng phía Nam, đóng vai trò then chốt trong cấu trúc tăng trưởng dựa trên công nghệ, đổi mới và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. TP.HCM sở hữu đầy đủ yếu tố để trở thành “siêu đô thị kinh tế” theo chuẩn mực quốc tế – một điểm tựa quan trọng trong hành trình nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc gia trong thập kỷ tới.
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào chu kỳ tái cấu trúc mạnh mẽ về thể chế, hạ tầng và mô hình tăng trưởng, câu chuyện phát triển địa phương không còn là phép cộng rời rạc của từng địa phương, mà là bản hòa phối của những cực tăng trưởng chiến lược. Top 10 địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm nay phản ánh rõ điều đó: mỗi địa phương mang một vai trò, một năng lực cốt lõi và một “vị thế trong hệ sinh thái vùng”, nhưng tất cả cùng hội tụ vào một mục tiêu chung – nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc gia. Nếu TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng tạo nên ba trục xoay của thương mại – tài chính – logistics, thì các địa phương công nghiệp như Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Nai, Ninh Bình, Phú Thọ lại là “động lực sản xuất”, trong khi Quảng Ninh và Tây Ninh mở ra hai biên độ tăng trưởng mới: kinh tế biển – du lịch chất lượng cao và logistics – năng lượng tái tạo.
Bức tranh phát triển đó cho thấy một quy luật quan trọng: sự thịnh vượng của doanh nghiệp phụ thuộc ngày càng lớn vào chất lượng điều hành địa phương, khả năng liên kết vùng và sức mạnh chuỗi giá trị mà mỗi địa phương có thể tạo ra. Những địa phương trong danh sách không chỉ thu hút doanh nghiệp lớn bằng hạ tầng hay chính sách ưu đãi, mà bằng một mô hình phát triển mới – nơi cải cách hành chính, tư duy bền vững, quy hoạch dài hạn và khả năng “kích hoạt nguồn lực xã hội” trở thành lợi thế cạnh tranh thực sự.
Ở một tầng sâu hơn, danh sách Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm 2025 cũng gửi đi thông điệp rõ ràng: tăng trưởng của Việt Nam trong thập kỷ tới sẽ đến từ các vùng động lực, không phải từ từng địa phương đơn lẻ. Việc doanh nghiệp chọn đặt trụ sở ở TP.HCM, nhà máy ở Đồng Nai, trung tâm logistics ở Hải Phòng hay khu công nghiệp vệ tinh ở Hưng Yên – tất cả đều phản ánh xu hướng dịch chuyển theo “hệ sinh thái vùng”, nơi mỗi địa phương đóng đúng vai và tạo đúng giá trị. Bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp cũng đặt ra yêu cầu mới cho các hệ sinh thái vùng. Những đợt thiên tai nghiêm trọng xảy ra trên diện rộng trong thời gian qua cho thấy tính liên kết của vùng không chỉ tạo ra lợi thế tăng trưởng, mà còn là nền tảng để tăng sức chống chịu trước rủi ro khí hậu. Năng lực bảo vệ hạ tầng thiết yếu, duy trì tính liên tục của chuỗi cung ứng và ứng phó với các cú sốc thiên tai đang trở thành yếu tố được doanh nghiệp lớn cân nhắc ngày càng nhiều khi hoạch định kế hoạch đầu tư trung và dài hạn.
Trong giai đoạn Việt Nam hướng tới các mục tiêu tham vọng về năng suất, công nghệ, xuất khẩu chất lượng cao và phát triển bền vững, vai trò của các địa phương càng trở nên quyết định. Những địa phương biết chủ động cải cách, dẫn dắt liên kết vùng và định vị lại mô hình tăng trưởng sẽ trở thành điểm đến hàng đầu cho dòng vốn, nhân lực và đổi mới sáng tạo.
Top 10 Địa phương hấp dẫn doanh nghiệp lớn năm 2025 chính là “bản đồ chiến lược” về những nơi đang định hình tương lai kinh tế Việt Nam – những cực tăng trưởng mới, những “điểm tựa vùng” và những tâm điểm của dòng vốn, công nghệ và cơ hội trong kỷ nguyên phát triển mới.
Vietnam Report